Thursday, July 30, 2015

Đinh Công Chương, Người Tù Kiệt Xuất - Song Long


ĐINH CÔNG CHƯƠNG

Người Tù Kiệt Xuất
 

 

Mỗi lần tâm tư tôi giao động vì những biến cố liên quan đến nước nhà, tôi lại phải ngẫm nghĩ đến một nhân vật chống Cộng khi xưa lúc tôi còn bị đám CSVN giam giữ với cái tên rất là nhân đạo: ‘cải tạo!’ Phải nói rằng tâm tư tôi giao động: có nên chống Cộng nữa hay không, hay mình nên hòa hợp hoà giải cho xong chuyện. Tôi là ai mà cứ phải mãi chống Cộng chứ? Biết bao người đã từng bạo phổi tuyên bố này nọ, vậy mà cuối cùng cũng đã bị ‘Việt Cộng’ chiêu hồi, làm cho chính nghĩa của chúng ta có lần đã phải điêu đứng. Gần đây nhất có những quân nhân đã từng khắc vào tay hai chữ ‘sát Cộng’, nhưng cũng bị đám Cộng Sản Việt Nam chiêu dụ. Họ đã mệt mõi rồi chăng? Chẳng những thế, những người đó đã về lại cái đất tự do này tuyên truyền cho cái chủ trương hoà hợp hoà ‘giái’ ấy! Trước những sự kiện ấy, đương nhiên là lòng tôi bị chao đảo thật sự. Tôi biết tôi chưa từng mò lên được cái chức vụ hàng đầu là phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, cũng chưa từng làm một nhà báo nổi tiếng, một kịch sĩ trứ danh đã khóc lóc thê thảm như cha chết mẹ chết vậy trước sự tuyên truyền láo khoét của Việt Cộng!

Tôi chỉ biết tôi là thằng thằng bé thuộc loại nobody của Miền Nam Việt Nam chưa từng được diễm phúc vào học trường ‘Quốc Gia Nghĩa Tử’ để  được hun đúc ý chí chống Cộng. Tôi chỉ biết tôi là một thằng con trai có cha bị Việt Cộng cắt cổ lôi đi mất xác, có chú bị Việt Cộng trụng nước sôi thảm tử! Tôi chỉ biết tôi là một thằng bé tiểu chủng sinh đã từng lượm một lưỡi kiếm hoen rỉ tại một nghĩa địa tại Qui-Nhơn mang về mài sáng chiều trong ba tháng hè cho nó trắng toát ra với quyết tâm sẽ đi đòi mạng những kẻ đã giết cha, chú của mình! Tôi chỉ biết tôi là một quân nhân QLVNCH có nhiệm vụ bảo vệ đồng bào chống lại sự tàn ác của Cộng Nô, đã từng làm cái nhiệm vụ ‘sống để bụng chết mang theo!’ Nghe đâu giờ đây cái khẩu hiệu ấy đã chỉ còn có một ý nghĩa thôi. Đó là đơn vị của tôi, một đơn vị lúc nào cũng tiếp tục chiến đấu, cho dù đó là thời bình hay thời chiến. Chúng tôi còn những người anh em vẫn còn bị nguy hiểm nếu kẻ thù biết được danh tánh của họ. Vậy mà có những kẻ đã cố làm cho nó lộ ra, vỗ ngực xưng tên của mình vì sợ rằng có những kẻ không biết đến mình! Họ có bao giờ nghĩ đến sinh mạng của những anh em khác đang bị đe doạ không? Tôi chỉ biết tôi là một tên tù ‘cải tạo’ của các ‘trường cải tạo’ của chúng với một lập trường rõ ràng trong sáng, từng được những anh em cùng chung lập trường chống Cộng thương yêu.

Tôi đã tiếp xúc với rất nhiều nhân vật, từ những nhân vật đã từng nắm nhiều chức vụ then chốt của chính quyền VNCH, những cấp sĩ quan cao cấp trong QLVNCH, đến những người lính, những Cảnh Sát Viên mà nếu có ai nhắc tên cũng chẳng ai biết đến. Nhưng phải nói một sự thật đau lòng là càng nắm những địa vị cao, những vị này càng tỏ ra yếm thế, nếu không nói là khiếp sợ không dám nói năng gì cả khi đối diện quân thù. Tôi không cố ý vơ cả đũa, vì trong số những người đó cũng có những vị rất anh hùng. Những người dám chống đối lại bọn chúng, phần lớn là những người rất tầm thường, những nghĩa quân, cảnh sát viên quèn, những viên trung sĩ hoặc những viên sĩ quan cấp úy! Giờ đây chính những người ấy và con cái của họ tiếp tục con đường chống cộng còn dang dỡ. Có người gợi ý tôi nên hỏi xem đâu rồi các cấp lãnh đạo một thời đó hoặc con cái của họ, thế hệ một rưỡi, thế hệ hai của họ. Sao họ không ra mặt đấu tranh chung với những người thuộc lớp hạ tầng như chúng ta?

Xin thưa chung chung rằng: quý vị hãy tiếp tục đấu tranh đi rồi khi nào thành công sẽ thấy họ hoặc con cái họ đứng lên cầm cân nãy mực cho chúng ta. Lo gì chứ? Chúng ta là những viên đá ba-lông, những viên đá móng, những viên gạch nằm dưới của một ngôi nhà Việt Nam. Chúng ta có nhiệm vụ phải quyết tử cho tổ quốc quyết sinh! Chúng ta là nền móng. Chúng ta không phải là thượng tầng của ngôi nhà. Nên chi chúng ta không cần phải xem thượng tầng kiến trúc là ai. Lúc ngôi nhà được hoàn thành, cái mái nhà ấy sẽ xuất hiện thôi. Họ là những người được sinh ra chỉ để cho các cương vị lãnh đạo, không phải  để chiến đấu, để hy sinh như chúng ta. Vậy thì xin quý vị đừng có hỏi xem họ hiện đang ở đâu và làm gì? Họ vẫn ở đó, lẩn quẩn quanh chúng ta thôi. Không chừng họ còn đang chén cha chén chú với kẻ thù chúng ta cũng chưa biết chừng. Rồi một ngày nào đó khi cỗ bàn đã dọn ra, quý vị sẽ thấy họ ngồi đầy ra đó. Lúc đó họ sẽ tha hồ mà tuyên bố vung vít!

Xa rồi mấy chục năm kềm kẹp. Xa rồi những loài khỉ mà chúng ta được dạy phải gọi là  ông là bà. Chúng ta, những người tù, những người họ ‘Phạm’ bất đắc dĩ, đã tạo ra một loại súc vật mới, loại ‘ông bà’! Đám súc vật này đã cố tình hạ nhục chúng ta, gọi chúng ta là ‘đồng bọn’ đối lại ‘đồng chí’ của bọn chúng. Thế nhưng chúng ta đã không ngã quỵ; chúng ta đã không gục ngã, mặc dù có một số kẻ đã mất niềm tin, đã cam tâm làm ăng ten, làm tay sai nối giáo cho giặc.Tuy vậy, thỉnh thoảng chúng ta cũng có được những người anh hùng. Trong các trại tù của bọn chúng, những vị anh hùng đó đều có mặt. Họ đã làm cho đám vuốt đuôi ấy có phần hoảng sợ! Gương những người hùng ấy vẫn còn đó, vẫn không làm sao xoá mờ được. Họ là những mẫu người đã giúp tôi sống kiên cường, không mất phương hướng. Hôm nay, ngẫm nghĩ lại, tôi xin đưa cho quý vị một mẫu người hùng như thế.

Trước kia, tôi chưa từng biết Đinh Công Chương là ai. Thật ra tôi không biết anh cũng phải, vì anh là người dân Bình Khê, thuộc đất Bình Định, còn tôi hoạt động vùng Quảng Ngãi. Tuy trước đó tôi đã hoat động ở Bình Định được trên bốn năm, nhưng phạm vi hoạt động của tôi cũng chỉ lẩn quẩn bên trong Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Tôi thuộc Biệt Đội 5 Quân Báo cạnh Sư Đoàn Mãnh Hổ nên hoạt động của chúng tôi vì thế bị rất nhiều hạn chế, không quen biết nhiều với các đơn vị địa phương thuộc tỉnh Bình Định. Vã lại, vì anh cũng chỉ là một nobody như tôi, một nhân viên Cảnh Sát sắc phục tầm thường không tên tuổi thuộc quận Bình Khê, nên làm sao mà tôi biết đến anh được. Tôi hân hạnh được biết đến anh nhờ tôi ở chung trại cải tạo với anh, trại Nghĩa Điền thuộc K18 Kim sơn, và nhờ một cơ duyên. Nhắc đến cơ duyên ấy tôi bỗng rùng mình. Nếu lỡ ngày ấy mình chết thật ...

Năm 1978, tôi bị bệnh kiết lỵ amibe; cứ năm phút là phải đi cầu. Chẳng có gì cả, toàn là đờm thôi. Tôi bị cho vào phòng ‘cách ly’ chung với một số người cùng mắc chung bệnh. Đây không phải là bị ‘nhốt ô’ hoặc khám tối, không có cùm kẹp gì cả. Đây chỉ là một căn trại đóng kín suốt ngày dành riêng cho những người mắc những chứng bệnh truyền nhiễm chờ chết nếu không có ai chữa được. Và đợt này dành cho những người bị bệnh kiết lỵ amibe. Và quả thật, sau khi vào đó một vài ngày đã có một số người đã thật sự ‘thoát tù’! Họ tử vì bị vi trùng amibe bào thủng ruột của họ. Tôi nghe Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ, vị bác sĩ phụ trách, nói thế.

Bác Sĩ Trứ là một Bác Sĩ Quân Y thuộc QLVNCH đã chịu hy sinh ở lại bệnh viện Qui-Nhơn để chăm sóc các thương bệnh binh còn nằm điều trị tại đây lúc Việt Cộng chiếm thành phố khoảng đầu tháng 4 năm 1975. Ông là người có công đã chôn cất cố Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, cùng 47 anh em tử sĩ thuộc Trung Đoàn 42/ Sư Đoàn 22 Bộ Binh tại Qui-Nhơn lúc Qui-Nhơn thất thủ. Sau một thời gian ngắn bị lợi dụng khi chưa đủ bác sĩ điều trị, vị bác sĩ này đã bị cho đi ‘câu gô’ như những anh em khác. Xin mở ngoặc khi tôi đề cập đến chữ ‘câu gô’ ở đây. Không biết chữ này có phải là một ‘từ của Việt Cộng’ hoặc một chữ do anh em tù chúng ta đặt ra, nhưng theo tôi hiểu thì ‘câu gô’ mang một nghĩa nhất định: bị tù tội dưới chế độ Cộng Sãn. Ở chế độ tự do, người tù đâu có đến nỗi đói khát phải ‘cải thiện’, một từ khác của Việt Cộng chỉ việc kiếm thêm chút đỉnh rau rác gì đó để nhét cho đầy cái bụng xẹp lép của mình! Đó là việc dùng một cái lon guigoz, sau này là một cái xoong nhỏ có quai thép tự chế, câu chung quanh lò hoàng cầm để ăn thêm!!!

Tôi cũng như một số anh em khác trong trại đã được Bác Sĩ Trứ cứu sống nhờ một sáng kiến táo bạo của anh. Anh đã đi gõ cửa từng trại của các anh em họ ‘Phạm’ xin một số lọ streptomycine, một trong những lọ thuốc quý mà trạm xá của anh không bao giờ có. Thay vì chích, anh đã hoà với nước cho anh em trực tiếp uống. Sáng kiến phi trường lớp này của anh rốt cuộc đã cứu sống số anh em bị bệnh còn lại, trong đó có tôi. Trong thời gian bị nhốt chúng với nhau, chúng tôi có dịp ‘nói khó’ với nhau, kể cho nhau nghe những chuyện anh hùng ‘chống Cộng Sản cứu đồng bào’! Tôi đã gặp đám anh em nghĩa quân Bình Khê, những trung đội trưởng nghĩa quân. Những anh em này đã kể lại những chiến công hiển hách của họ quanh khu vực lăng Mai Xuân Thưởng. Họ đã chỉ cần có 60 quả mìn claymore thôi đã diệt hầu như toàn bộ các sĩ quan cao cấp của Sư Đoàn Nông Trường Ba Sao Vàng Bắc Việt, làm cho họ phải án binh bất động một thời gian dài để bổ sung quân số, làm cho vị tư lệnh sư đoàn 22 BB phải khiển trách thuộc hạ vì đã để lỡ mất cơ hội lập chiến công cho mình, làm cho vị tư lệnh Sư Đoàn mãnh Hổ Đại Hàn bực tức phải đuổi vị trung đoàn trưởng Thiết Kỵ của mình về nước cũng vì lý do trên.

Có lẽ một số quý vị không hiểu tại sao nghĩa quân Bình Khê lại làm được một chiến công hiển hách như thế mà không tốn một sinh mạng trong khi hai sư đoàn chủ lực thiện chiến lại bỏ mất cơ hội đáng tiếc ấy. Thật ra chuyện ấy cũng đơn giản thôi. Vùng trách nhiệm chiến thuật (TAOR) của hai sư đoàn trùng lập với nhau. Vì thế cả hai sư đoàn đều nhượng nhau ở đường ranh giới trách nhiệm ngang qua lăng Mai Xuân Thưởng. Lợi dụng cơ hội đó, Cộng Sản đã dùng con đường này làm đường giao liên phát xuất từ Núi Bà xuống vùng ven tỉnh lỵ. Hôm đó quả có một phái đoàn sĩ quan cao cấp của Sư Đoàn Nông Trường 3 Sao Vàng Bắc Việt xuống vùng ven tỉnh lỵ Qui-Nhơn để gắn huy chương cho bộ đội của chúng. Nghĩa quân Bình Khê nhờ may mắn bắt được tin ấy và thế là họ đã tạo nên chiến thắng có một không hai như ‘xi nê của Cộng Sản’ ấy, một trận sát địch mà chỉ có tổn thất nặng cho phe địch. Đúng là hay không bằng hên!

Trong lúc điểm danh những chiến sĩ anh hùng của Bình Khê, anh em vô tình có nhắc đến Đinh công Chương, một nhân viên cảnh sát rất nhỏ nhưng lòng căm thù Cộng Sản rất lớn, hiện đang bị án 20 năm và giam giữ tại trại Một Kim Sơn, K18. K18 có nhiều phân trại, trại chính là trại Một. Các phân trại gồm có trại 2, trại nữ, và trại Nước Nhóc. Trại 2 và Trại Nữ cách trại 1 không xa, nhưng trại Nước Nhóc ở một vùng núi rất xa. Rất tiếc là tôi chưa từng được đưa đến đây nên chỉ kể sơ như thế thôi. Tôi được nghe anh em kể chuyện về anh Đinh Công Chương và ao ước muốn gặp được anh một lần để làm quen với người anh hùng sát cộng ấy! Nhưng anh lại ở mãi trại 1. Biết bao giờ tôi mới hân hạnh được gặp con người lừng danh ấy.

Nhưng sự đời có nhiều việc không ngờ. Phong trào phản động trong nước lại bùng lên. Có phải vì việc đó hay không, tôi không biết, chỉ biết một lần nữa chúng tôi lại phải dời trại. Trại 2 Kim Sơn bị hủy bỏ và toàn bộ trại bị dời sang Nghĩa Điền, một trại sâu xa trong núi. Tại đây tôi may mắn được cái điều tôi luôn luôn tìm kiếm. Một bộ phận tù nhân có trọng án cũng được chuyển đến trại Nghĩa Điền từ trại 1 Kim Sơn. Qua sự giới thiệu của bạn bè gốc Bình Khê, tôi dần dần quen biết với Đinh Công Chương.

Anh là một người bảnh trai, với nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Qua lời kể lại của những người đã từng quen biết anh, anh là một võ sĩ có tầm cở, tuy anh chưa bao giờ lên đài cả. Tất cả những võ sĩ tôi gặp trong tù đều cho rằng họ đều không phải là địch thủ của anh nếu phải đối địch. Anh học võ chỉ vì anh có một mối thù truyền kiếp với Việt Cộng. Anh cần phải đòi nợ những kẻ đã giết cha anh. Vì thế anh đã gia nhập vào lực lương cảnh sát Bình Khê. Mặc dù anh không phải là Nhảy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến với dấu xăm ‘sát cộng’ trên cánh tay, nhưng anh đã là một sát thủ thứ thiệt. Anh rất căm ghét đám Cộng Sản nằm vùng địa phương. Bộ đội Bắc Việt anh có thể tha, vì nghĩ rằng họ bị bắt buộc phải nhập ngũ. Nhưng cái thứ ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản, các cán bộ, bộ đội, du kích địa phương thì anh không thể nào tha thứ được, vì họ là chính phạm đã làm tan nát gia đình anh. Bắt được những người này là anh bắn ngay không cần phải hỏi han gì cả. Chẳng những thế, anh còn bắn chết những tù binh do các đơn vị bạn, các đơn vị đồng minh bắt.

Theo luật pháp lúc bấy giờ, anh có thể bị truy tố ra tòa và đi tù vì tội giết tù binh. Nhưng vì thương tình anh là một chiến sĩ chống cộng, nên các cấp chỉ huy không đưa anh ra tòa, chỉ tướt súng anh thôi. Mặc dù không còn súng nữa, anh vẫn giết Việt Cộng như thường bằng tay không. Chỉ cần cho anh bắt gặp, nạn nhân sẽ bị vặn đầu trật khái khế ngay. Sau ngày 30 tháng 4, 1975, anh bỏ trốn vô Sài-Gòn. Nếu anh bị bắt ngay từ đầu, có lẽ anh đã không còn mạng để trở về. Anh đã may mắn là chỉ bị bắt khi luật pháp của CSVN đã được ổn định trở lại. Do đó anh đã lãnh án 20 năm.

Biết rằng tôi vẫn còn giữ vững lập trường quốc gia với cái tên cúng cơm là H. T15, anh hay qua lại nói chuyện với tôi trong những khi rảnh rổi. Anh thường than phiền rằng có lẽ anh sẽ phải chết rục trong tù. Để an ủi anh, tôi khuyên anh nên nhẫn nại. Tôi cũng chỉ biết nói vậy thôi, chứ bản thân tôi, tôi cũng chẳng biết tương lai của mình ra sao nữa. Có nhiều lúc, tôi cũng nghĩ đến chuyện trốn trại, nhưng tôi cho là vô ích, vì không lẻ trốn về nhà để bị bắt lại. Tôi chia sẻ với anh những gì tôi suy nghĩ trong đầu với mục đích để an ủi anh. Bây giờ cả đất nước là của họ rồi, còn đi đâu nữa?

Không ngờ những ý tưởng đó lại làm cho anh có một quyết tâm mới. Thà trốn trại còn hơn chết rục trong tù. Anh lên một kế hoạch trốn trại táo bạo. Một sáng Chủ Nhật, trong lúc nói chuyện với anh em chúng tôi, thừa lúc không ai để ý anh nói nhỏ với tôi: “Tôi đến đây để từ giả anh. Lòng tôi đã quyết. Tôi phải đi thôi!” “Anh đã tính kỹ chưa? Đã biết bao cuộc trốn trại từ Nghĩa Điền đều thất bại. Gần đây nhất có cuộc trốn chay của một số anh em người Thượng vùng Sơn Hà. Họ rành đường núi. Nhưng rồi Đinh Giàu và Đinh Văn Ôn đã bị bắn chết, còn Đinh Nía bị chết rục trong ô.” Tôi nói. Anh cười: “Tôi mà đi, tôi sẽ không đi như mấy anh đó đâu? Tôi phải có gì trong tay tôi mới đi. Mà đi là phải vượt biên chứ không về nhà! Tôi chả dại để bị bắt lại lần nữa.”

Tưởng anh chỉ nói để mà nói, không ngờ anh đi thật! Anh thuộc toán nhổ mì do tên cán bộ Nhường phụ trách. Thật ra, trong số các cán bộ quản giáo, tên Nhường dễ chịu nhất, không đến nỗi phải tới số. Nhưng biết làm sao được khi anh Chương lại không có một đường lựa chọn tốt hơn. Tên Nhường đã chọn ra khoảng 15 người từ phòng trọng án. Đa số có án 20 năm, có thể lực tốt. Lúc đầu, theo giữ toán nhổ mì còn có một tên lính quản chế đi kèm, mỗi ngày một tên khác. Sau một thời gian sinh hoạt, dần dần tên Nhường mất cảnh giác đi, không cần có lính quản chế khác nữa.

Thật ra cũng chẳng phải hắn ta tốt bụng gì đâu. Hắn ta muốn mua chuộc anh em tù nhân dưới quyền của hắn để làm việc riêng cho hắn đó thôi. Lúc đó đang có một chiến dịch tăng gia sản xuất trong hàng ngũ của bọn chúng. Mỗi cán bộ ‘quản giáo’ hoặc ‘quản chế’ phải trực tiếp thực hiện. Mỗi tên được cấp cho một sào đất để canh tác. Tên Nhường lợi dụng cảm tình của anh em dành cho hắn cứ mỗi Chủ Nhật vào nhận một số anh em ra để làm việc cho hắn. Mỗi lần như thế, hắn ta cho anh em được mua thêm một ít khoai mì hoặc gạo của dân chúng bên ngoài để ‘bồi dưỡng’. Như thế hắn vừa được việc vừa chẳng tốn công tí nào. Hắn lại không muốn trên cơ quan biết đến mưu mô của hắn. Do đó hắn tìm cách bớt đi tên lính quản chế để chúng khỏi biết được những việc làm đen tối của hắn.

Ngày thứ bảy định mệnh năm ấy, có lẻ năm 1980 hoặc 1981 tôi không còn nhớ rõ, như thường lệ, toán nhổ mì do anh Đinh Công Chương làm trưởng toán được tên Cán bộ Nhường dẫn đi nhổ mì như thường lệ. Đây là một vùng núi rất sâu về phía Tây có lẻ thuộc Quận Hoài Ân. Sau khi vượt qua một số ngọn đồi, anh em đến một đám mì thuộc hàng cố nội. Nhìn những cây mì này anh em thấy phát ngán vì chúng rất to, cây nào cây nấy to cao có thể mắc võng nằm được. Có lẻ đám mì này là một trong số những đám mì đã trồng trước năm 1975 bị bỏ hoang. Vì biết công việc hôm nay sẽ rất nặng, anh em bắt tay vào việc ngay, hy vọng sẽ hoàn thành được công việc trước khi trời tối: mỗi người phải đào cho được một gánh đầy. Anh em chia làm hai toán, một toán lo đi phát những sợi dây leo vướng mắc. Không phát những dây leo chằng chịt này sẽ không cách vào len vào được chứ đừng nói đến chuyện nhỗ mì. Toán thứ hai dùng cuốc bàn cuốc sơ quanh gốc để cho dễ nhổ. Sau đó anh em bắt đầu chia ba người một tổ xúm nhau nhổ mì.

Vì là đất núi rất cứng nên tuy đã đào sơ quanh gốc, nhưng không phải vì thế mà dễ nhổ. Anh em phải hè nhau vừa lắc vừa tìm thế để nhấc nó lên. Nếu có củ nào bị sót, thì đã có xà beng để nạy. Mì hàng chục năm nên củ nào củ nấy to bằng cái đầu nên anh em hì hục đã buổi sáng mà chưa nhổ được mấy cây cả. Anh em nhìn nhau ngao ngán. Không ‘đạt’ thế nào tối nay cũng sẽ bị kiểm điểm nặng!

Trong lúc giải lao 15 phút, anh Đinh Công Chương đại diện anh em đến xin tên Nhường cho một số anh em vào làng mua thêm gạo để ‘bồi dưỡng’, vì nếu anh em ăn không no thì không thể nào làm tiếp được. Tên cán bộ cũng đã quan sát và biết việc anh em xin cũng là điều hợp lý, nên đồng  ý cho hai người đại diện đi mua sắm. Khi bắt tay làm việc lại, bỗng nhiên anh Chương đưa ra một ý kiến. Anh bảo mọi người hãy chờ anh một chút để xem anh biểu diễn sức mạnh. Mọi người đều biết anh Chương mạnh, nhưng mạnh như thế nào thì không một ai biết. Anh đi giữa hai hàng cây, giang hai cánh tay ra, mỗi tay nắm lấy một thân cây và nhổ một cách nhẹ nhàng hai cây một lúc giữa tiếng reo hò cỗ võ của anh em trong toán. Họ không ngờ anh lại quá mạnh như thế. Và cứ như thế, anh cứ tiếp tục đi và nhổ. Anh em chỉ việc dùng rựa để cắt ra từng củ một và cho vào thúng.

Chẳng bao lâu gánh nào gánh nấy đều đầy cả. Anh em nghỉ mệt để ăn uống. Vì đó là công của một ngày nên sau buổi ăn trưa anh em không phải làm gì nữa cả, chỉ việc đợi đến chiều là đi về thôi. Trong thời gian rảnh rổi này, một số anh em đi loanh quanh hái lá cây rừng để ‘bồi dưỡng’ thêm. Anh em bỗng phát hiện một chú ‘cheo’ chạy lạc đến. Anh em thận trong dí cho nó chạy ra ngoài trống để dễ đuổi bắt. Trong lúc anh em lo rượt đuổi con cheo, anh Chương chẳng làm gì cả. Anh cứ ngồi đó vấn thuốc hút, hết điếu này đến điếu khác. Bất ngờ, con cheo chay ngang qua chỗ anh đang ngồi.

“Nè Chương, chận con cheo ấy lại, không thì nó sỗng mất!”

Anh Chương không cần phải được nhắc lại lần thứ hai. Lúc con cheo vừa tầm anh dùng ngay cái cuốc bàn quật vào đầu con cheo một phát, giết nó ngay tại chỗ. Bữa hôm đó anh em được một bữa bồi dưỡng đúng đắn. Tuy không nhiều nhưng ít ra anh em trong toán ai nấy cũng được một ít thịt tươi trong bụng.

Chẳng bao lâu đã đến buổi chiều. Tên cán bộ Nhường cho lệnh về trại. Anh Chương là người trưởng toán nên anh đi sau cùng. Anh em theo con đường mòn quen thuộc để xuống núi. Đó là một đoạn suối khô đầy đá. Anh em trong toán cố gắng xuống triền núi thật nhanh để chờ đợi. Anh Chương vừa đi vừa kể chuyện tiếu lâm cho anh em nghe. Vì thế anh đi không nhanh lắm. Do đó chẳng mấy chốc bị anh em bỏ rơi lại phía sau. Không một ai biết đó là chủ ý của anh. Anh biết tên Cán bộ Nhường cũng khoái nghe anh kể chuyện vì hắn đã nghe anh kể chuyện tiếu lâm nhiều lần. Lúc đó trên đoạn suối khô ấy chỉ còn có một người đi trước anh, và tên Cán Bộ Nhường đi sau anh thôi. Càng lúc tiếng kể chuyện của anh càng nhỏ dần. Vì để nghe cho rõ hơn, tên cán bộ đã cố đi cho thật gần để nghe tiếp câu chuyện hấp dẫn. Anh chỉ chờ có thế. Khi tên cán bộ vừa tầm. Anh ném ngay cái gánh mì xuống đất và trở cán cuốc trên vai bổ ngang một phát ra sau. Cái cuốc bàn định mệnh lúc sáng đã quật chết con cheo giờ cũng đã đập vào đầu tên cán bộ làm cái sọ não của hắn bể ra óc phọc trắng xoá!

Không một tiếng la, chỉ có một tiếng ‘bốp’ thôi. Người đang gánh mì đi trước giật mình xoay lại xem. Anh hoảng quá khi trông thấy tên cán bộ ngã quỵ. Mặt xanh như tàu lá, anh này cũng ném nhanh gánh mì trên vai chạy ngay xuống triền núi nơi anh em đang đợi. Lúc anh vừa chạy đến chỗ anh em cũng vừa lúc chiếc nón cối vàng của tên cán bộ cũng lăn theo xuống, Cái nón cối chỉ còn cái vành còn nguyên thôi. Phần còn lại méo mó với một ít tóc, máu và óc trong đó.

Cả toán mì sững sờ. Lại sắp có một vụ trốn trại nữa. Lần này không như những vụ trốn trại trước. Lần này có án mạng, một vụ giết cán bộ cướp súng. Cả toán im lặng, một sự im lặng đáng sợ! Không một ai dám phản ứng! Họ chờ đợi người đó xuất hiện trước khi họ có sự phản ứng nào. Quả thật, anh Đinh Công Chương không phí thời gian để xuất hiện. Anh từ từ bước xuống, một tay cầm khẩu carbine M2 của tên cán bộ, tay kia vắt chiếc áo mưa vàng của công an vì hôm đó trời có mưa lất phất. Không một ai dám nhìn thẳng vào mặt anh cả. Gương mặt của anh tái ngắt; đôi mắt anh đỏ lên, cái đỏ của một sự hận thù. Những cái đó chưa hề xuất hiện trên mặt anh. Anh như đã biến thành một người khác, không còn là một anh chàng đẹp trai với nụ cười trên môi nữa. Vẻ mặt anh toát lên một khí thế của một chiến binh đang ra trận. Họ có người đã từng là quân nhân. Họ quá rành về những vẻ mặt như thế.

Bằng một giọng từ tốn nhưng rắn rỏi, anh lên tiếng:

“Sự việc đã như vậy rồi. Không thay đổi được nữa. Anh em chỉ còn có một đường binh thôi là hãy đi theo tôi. Ở lại thế nào cũng bị chúng đánh chết. Thế nào anh ‘Bảo’? Có đúng vậy không? Anh em cứ việc cho ý kiến!”

‘Bảo’ là tên của một người có án 20 năm, từng ở trong mặt trận ‘Phục Quốc’. Thường ngày khi nói chuyện với anh em, anh này cũng lên tiếng cứng rắn lắm về lập trường của mình. Nhưng hôm nay, đứng trước một quyết định đi hay ở, anh là một người thiếu dứt khoát nhất. Người anh run run, hai tay anh chắp lại, khom mình xuống lạy anh Chương:

“Anh Chương hãy tha cho tôi đi. Tôi còn phải sống cho vợ con tôi ở nhà. Tôi không thể theo anh được.

“Vậy mà cũng đòi làm phản động!” Anh Chương cười gằn. “Đi thì may ra còn chút hy vọng. Còn ở lại thì ... Chắc anh cũng đoán được rồi đó. Còn những anh em khác, có ai dám theo tôi không?”

Nghe vậy tất cả mọi người đều run rẫy lạy lục anh Chương như tế sao:

“Thôi mà anh Chương, tha cho chúng tôi đi. Anh nói sao cũng được, nhưng chúng tôi xin anh.”

“Thôi được,” anh Chương nhìn anh em thở dài. “Tụi mày chỉ chống cộng bằng miệng thôi. Tao hy vọng tụi mày sẽ qua khỏi cái truông này.”

“Được rồi, anh nói tiếp. “Anh em hãy đưa tất cả các thùng quẹt đây. Gạo mua lúc sáng cũng không được mang về trại. Và hãy về nhắn với bọn cán bộ trong trại rằng thằng Chương đi hướng này đây. Tụi nó nếu có đứa nào muốn chết thì hãy lên đây tìm tao!”

Anh thu lấy tất cả các hộp quẹt, dồn tất cả số gạo đã mua lúc sáng vào một bao lớn, và từ từ xoay lưng đi chậm chầm theo hướng củ

Chờ sau khi anh Chương đi khuất, toán mì mạnh ai nấy ù té chạy, vì sợ anh Chương sẽ đổi ý bắn theo. Nhưng không anh không làm vậy. Anh không bắn ai cả.

Quả vậy, đúng như lời anh Chương đã báo trước, ngay khi báo cáo cho vọng gác về tình hình trốn trại cướp súng của anh Chương, anh em đã bị một số bộ đội quản chế cho ăn những đòn thù. Sau những hồi kẻng báo động, toàn bộ trại viên bị nhốt vào phòng, mặc dầu có nhiều toán lạo động chưa về kịp. Anh em nhìn nhau, có kẻ xanh mặt, có người điểm nụ cười kín đáo. Chẳng cần ai bảo, anh em đều biết có vụ trốn trại, tuy chưa biết là ai.

Phòng giam của tôi nằm sát vòng rào nơi có con đường các toán lao động thường đi nhất, nên những gì đang xãy ra, chúng tôi đều thấy. Trừ mấy tên lính canh ra, toàn bộ bọn Cộng Sản còn lại đều lần lượt đi qua, tên nào tên nấy đề trang bị đầy đủ với Carbine M2, Ak 47 và M.16. Chúng chạy rầm rập như khi đụng phải quân địch mạnh. Khoảng 7 giờ tối, có một toán quay trở lại, trong đó có tiếng phụ nữ than khóc.

“Ác chi mà ác dữ vậy nè! Đã đập chết, còn lấy mấu rựa bằm nát mặt, và lột hết quần áo! Tui mà bắt được nó tôi phải bằm nó ra từng khúc, ăn gan nó mới hả giận!”

Bọn chúng đang võng tên Nhường về. “Tên này là tên thật nguy hiểm,” tiếng của một tên trong bọn vang lên. “Nó không có trốn một cách bình thường, nó còn nấn ná lại để ra đòn thù nữa. Không biết có đồng chí nào bị thương không.”

Thật ra, bọn bộ đội không dám truy kích lên núi. Sau lúc lấy được xác của tên Nhường, bọn chúng biết được lòng hận thù và quyết tâm của anh, nên không dám theo truy kích. Chúng chỉ kích theo bìa rừng hy vọng sẽ tìm gặp anh. Đêm đó bọn chúng không thành công. Sáng ra, nhìn vẻ mặt phờ phạc của đám bộ đội truy kích, anh em trong trại hiểu ngay là chúng đã thất bại. Trong phòng anh em tù đoán già đoán non về tung tích của anh Đinh Công Chương.

“Gớm thật, dám thách thức bộ đội bằng cách chỉ hướng đi của mình, trừ Đinh công Chương, chẳng có ai dám như thế cả.”

Sáng Chủ Nhật, các phòng giam được mở như thường lệ để cho tù đánh răng súc miệng tuy trễ hơn một tiếng. Hôm đó, tuy được mở cửa, anh em không ùa ra đi giành cầu như thường lệ. Anh em cứ tụm thành từng nhóm trước cửa phòng của mình, mắt đăm đăm nhìn về khu ‘kỷ luật’ nơi toán nhổ mì đã bị nhốt từ chiều qua. Nhìn vẻ mặt hận thù của mấy tên cán bộ, bộ đội, anh em đoán được một bầu không khí sát phạt sắp diễn ra.

“Thế nào bọn chúng cũng không để yên cho toán mì đâu. Tụi nó muốn dằn mặt đám tù còn lại.”

Quả thật, đúng 8 giờ sáng, một toán cán bộ với súng ống đầy đủ lặng lẽ đi vào cổng. Chúng tôi đã quá rành kiểu này của bọn chúng.

“Ai về phòng nấy!” Tên chỉ huy lớn tiếng.

Bọn chúng nhanh nhẹn tản ra để lùa đám tù nhân hiếu kỳ vào phòng và khoá cửa lại.

“Chợ trời chăng?” Anh em hỏi nhau.

‘Chợ trời’ trong tù không mang ý nghĩa giống như một chợ trời bình thường. Đó là một danh từ mang một ý nghĩa nhất định. Nhất định ở đây không mang ý nghĩa ‘nhất định’ của Cộng Sản đâu nha. ‘Nhất định’ của CS có nghĩa là một cái gì đó, không nhất thiết phải là cái gì. Nhất định theo cách dùng của chúng ta là ‘duy nhất’. Đó là tổng kiểm soát! Từng phòng sẽ được mở ra cho tất cả người trong phòng mang đồ đạc của mình ra ngoại sân và bày ra giống như chợ trời để bọn cán bộ ‘thu mua’, một từ khác của CS mà người tù ám chỉ việc tịch thu những đồ gì chúng không muốn cho trại viên sở hửu, hoặc chúng muốn dùng làm của riêng cho bọn chúng. Vì thế anh em trại viên rất ngán cái màn chợ trời này.

Không, hôm nay không phải là ‘chợ trời’, mà là một biến cố khác. Sau khi đóng xong các cửa phòng giam, bọn chúng tập trung lại và vào khu kỷ luật. Anh em toán mì từ từ được gọi ra sắp thành một hàng ngang đối diện với đám cán bộ quản chế. Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, đám cán bộ nhào vào đám tù nhân xông xáo như sói giữa bầy chiên, vận dùng hết những kỷ năng của chúng, bá dọc bá ngang, lên gối, kiềng ngang, kiệng dọc, đủ cả. Anh em trong phòng chỉ còn nghe được những tiếng thét kêu đau của anh em toán mì, những tiếng than vãn xin tha mạng, những tiếng cười dã man của bọn quỷ dữ đang hành hạ tội nhân. Rõ ràng là bọn chúng làm theo chỉ thị của ban giám thị, chứ chẳng phải vì hận thù cá nhân! Đã có nhiều người bị đánh té đái, phọt phân trong quần! Thật không may, trong số những nạn nhân này có hai anh em vì không chịu nổi những đòn thù đó đã chính thức ‘thoát trại’ hai ngày sau đó!

Người ta bị đánh mà mình cảm thấy nóng mặt. Dù gì cũng là những người tù với nhau. Họ cảm thấy như chính mình bị những đòn thù ấy! Tôi chứng kiến cảnh ấy với vẻ mặt bình thản! Quý vị đừng hỏi tại sao!

Anh Đinh Công Chương đã cho chúng tôi nghỉ mấy ngày. Những ngày ấy bộ đội bận đi kích dọc theo bìa rừng. Họ không dám vào rừng vì nghĩ rằng anh Chương vẫn còn ở đó, chưa đi đâu cả. Quả vậy, trong hai ba ngày đầu, anh vẫn còn trong rừng đợi bọn chúng đến. Bằng chứng là vào tối thứ hai, trong khi bọn chúng đang kích ở triền núi, anh Chương đã quay trở lại cơ quan của chúng lấy đi gạo và một ít đồ dùng. Đúng là gan cùng mình! Có lẽ anh đã bỏ đi sau đó vì không ai thấy anh xuất hiện nữa.

Đúng như anh đã từng nói với tôi, anh đã không trở về nhà, mặc dù vùng này không xa Bình Khê mấy. Anh em Bình Khê được gia đình cho biết là bộ đội đã rình rập chung quanh nhà anh cả tháng, nhưng không thấy anh đâu cả. Tuy vậy, mọi người cũng được biết chút ít tin tức về đường đi của anh. Trên đường, anh đã giết 7 tên bộ đội và du kích đã đi theo anh và tịch thu súng ống đạn dược và lương thực của họ. Theo lời môt tên cán bộ quản chế cho biết: Cơ quan đã thuê hai viên trung úy  người Thượng, những tên rất gan dạ và có thành tích để theo dấu anh. Một tuần sau, có kẻ đã gặp họ trong rừng, mặt bị bằm nát và treo lủng lẳng trên cây!

Cho đến ngày chúng tôi được cho về nhà: một số với nửa trang giấy lệnh tha; số khác như tôi chẳng hạn, vì cho rằng có ‘nợ máu với nhân dân’  đã được cho về đia phương bằng quyết định quản chế tại địa phương. Tôi đã cố tìm hiểu xem anh có thoát được không. Nhưng anh như con cá đã vượt xa ra biển, không một tin tức.

Cầu mong rằng số phận của anh sẽ không đến nỗi nào!

Nashville, TN

07/28/2015

Song Long

304Đen - Llttm

 

Lấp Lánh Hạt Sương Mai (Thơ Xướng & Họa) - Mai Xuân Thanh & Khôi Nguyên & Hồ Nguyễn




LẤP LÁNH HẠT SƯƠNG MAI

 


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Bài Xướng

 
LẤP LÁNH HẠT SƯƠNG MAI

 

Làm quen khách khí nói khiêm nhường

Thăm hỏi ân cần cũng dễ thương.

Đồng khí tương cầu luôn giữ lễ,

Đồng thanh tương ứng họa thơ thường.

Anh em bốn biển thân bằng hữu,

Bè bạn năm châu cũng vấn vương...

Ví phỏng thâm giao tình gắn bó,

Nhược bằng lấp lánh giọt như sương !

 

 Mai Xuân Thanh

Ngày 29 tháng 07 năm 2015

 

 Bài Họa

 
LẤP LÁNH HẠT SƯƠNG MAI

 

Nói thẳng với nhau chẳng nhúng nhường,

Sửa phần "đối tự"để tròn thương.

Làm thinh sợ bạn cho đồng ý,

Lên tiếng lo ta vụng lễ thường.

Lòng muốn giao lưu không cố chấp,

Tâm mong xở lở chẳng tơ vương.

Trước sau tinh khiết tình trong trắng,

Lấp lánh ban mai, giống giọt sương...

 
Khôi Nguyên



 
Đời bin trn ai chng nhún nhường,

Tâm tình có hiểu mi là thương.

Nói ra chân thực thành tranh chp,

Góp ý trung kiên hiểu khác thường.

Hạnh đc mun cao đng c chp,

Trung cang thấu hiu chng lưu vương.

Anh em thân hữu tình chân tht,

Sáng chói lung linh trắng t sương.

 
Hồ Nguyễn

 

 


Cuộc Tình Buồn Đã Đủ - vkp Đạm Phương


CUỘC TÌNH BUỒN ĐÃ ĐỦ


 
 
 
 
 
 


Tin anh nhắn muốn một lần gặp lại
Em ngỡ ngàng tưởng đang sống trong mơ

Bao năm qua em đâu có ngóng chờ
Người xưa cất bước quay về chốn cũ!

Thôi anh ạ, cuộc tình buồn đã đủ
Nhắc lại làm chi? chỉ khổ thêm thôi

Dù bây giờ em vẫn sống đơn côi
Vết thương đã chôn sâu vào bể hận!

*
Nếu chẳng may chút tình còn vướng bận

Gặp nhau rồi tim thổn thức càng đau

Níu làm chi hình ảnh giấc chiêm bao?

Chìm trong quá khứ, một thời yêu vội!

*

Đường ân ái trót chia hai bờ lội
Hơn nửa cuộc đời mỏi gối chồn chân...

Chuyện dĩ vãng theo cát bụi hồng trần
Để lại con tim bao lần cay đắng !

*
Hãy giữ cho nhau những gì đẹp nhất

 Vkp đạm phương

 

 

Nắng Vội Bỏ Người Đi - Thuyên Huy



Nắng Vội Bỏ Người Đi

 


 
 
 
 
 
 
Nửa chiều nắng vội bỏ đi
Cơn mưa ngày cũ tìm về lối quen

Dài tay lùa sợi tóc mềm
Lả lơi nhẹ giọt hứng đêm tạ tình

Cuối đường phố chợt buồn tênh
Hoa ngoài song cửa thôi đành gọi mưa

Đò qua sông vắng người chờ
Chuyến xe thổ mộ khách thưa thớt sầu

Chơ vơ trời đất gọi nhau
Quỳ hôn cát bụi niềm đau tạ từ

Dáng ai gầy tuổi tương tư
Nhà bên ru khúc thương hờ một mai

Nắng đi bỏ nhớ lại đây.

 
Thuyên Huy